Trong trường hợp người khác lấy căn cước công dân của bạn đi vay, liệu có phải trả nợ trong tình huống này? Hãy theo dõi ngay bài viết này nhé!
Căn cước công dân chứa đựng rất nhiều thông tin cá nhân vì vậy rất nhiều nơi cho vay tiền khi xuất trình được giấy tờ này. Trong trường hợp người khác lấy căn cước công dân của bạn đi vay, liệu có phải trả nợ trong tình huống này?
Người khác lấy cắp thông tin căn cước công dân để vay nợ thì chủ thẻ có phải trả nợ?
Hành vi sử dụng căn cước công dân hay thẻ căn cước của người khác để vay mượn không phải là mới, lạ. Tuy nhiên, rất nhiều bạn đọc đặt ra vấn đề pháp lý rằng việc bị người khác lấy thẻ căn cước hay căn cước công dân của mình đi vay nợ khắp nơi thì mình có phải trả khoản nợ này không?
Theo luật sư, trong trường hợp bị người khác lấy cắp thông tin trên căn thẻ căn cước hay căn cước công dân để vay nợ thì chủ thẻ không có nghĩa vụ phải trả nợ. Theo Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, hợp đồng vay tài sản chính là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay sẽ giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả nợ, bên vay phải hoàn trả lại cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng về số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu như có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Như vậy, việc vay nợ chỉ được xác lập khi dựa trên sự thỏa thuận của các bên dưới tinh thần tự nguyện. Trong trường hợp mà bản thân bị người khác lấy cắp thông tin căn thẻ căn cước hay căn cước công dân để vay nợ nhưng ở trên thực tế không thực hiện giao dịch vay tiền, không nhận được tiền vay thì không có nghĩa vụ phải trả nợ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, những người bị lấy cắp thông tin phải chứng minh được bản thân không phải là người đã thực hiện việc vay tiền.
Bên cạnh đó, đối với việc người mà lấy thông tin căn cước công dân, thẻ căn cước, làm giả chữ ký của người khác nhưng tổ chức tín dụng vẫn cho vay, nếu người dân phát hiện ra bản thân không vay, không ký thì cần phải có ý kiến với cơ quan chức năng điều tra, làm rõ. Việc này có dấu hiệu phạm tội lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản.
Cùng với đó, các cơ quan chức năng cần làm rõ, việc có hay không có việc nhân viên tín dụng thông đồng với bên vay làm giấy tờ giả để có thể nhanh chóng giải ngân. Trên thực tế rất nhiều trường hợp như thế này đã xảy ra.
Theo luật sư, những người bị đánh cắp thông tin có thể trình báo sự việc trên cho các cơ quan công an theo quy định tại Điều 163 thuộc Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 7 thuộc Thông tư 28/2020/TT-BCA để được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, xác minh sự việc, cũng như sẽ đưa ra phương án xử lý với người lấy cắp thông tin. Riêng trường hợp giấy tờ nhân thân bị rơi, bị mất thì phải nhanh chóng thông báo với các cơ quan có thẩm quyền về việc làm rơi, mất giấy tờ nhân thân của mình. Trong trường hợp giấy tờ có chứa thông tin cá nhân bị đánh rơi, mất, người dân cần phải thông báo đến cơ quan có thẩm quyền để được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chính bản thân mình.
Đối với các cá nhân có hành vi sử dụng thông tin cá nhân của người khác mà không đúng mục đích hoặc không có sự đồng ý của chủ thẻ, có thể bị phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng theo quy định tại khoản 2 thuộc điều 84 nghị định 15/2020/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung bởi nghị định số14/2022/NĐ-CP). Ngoài ra, nếu như phải chịu thiệt hại do hành vi tự ý chiếm giữ và sử dụng các thông tin căn cước công dân để vay tiền, bạn có thể khởi kiện người đó để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo khoản 1 thuộc điều 584 Bộ luật Dân sự 2015.