Tại sao người xưa lại có “tam thê tứ thiếp”? “Tam thê” là ba bà vợ nào và “tứ thiếp” là bốn thiếp nào?
Hôn nhân thời hiện đại tuân theo chế độ một vợ một chồng, đôi bên cùng bình đẳng. Nhưng ở thời phong kiến thì không phải như vậy. Mỗi cuộc hôn nhân ở thời bấy giờ đều bị ảnh hưởng bởi yếu tố bối cảnh gia đình, địa vị xã hội và tư tưởng nam tôn nữ ti.
Hoàng đế có tam cung lục viện; văn võ bá quan, con nhà phú hộ thì tam thê tứ thiếp. Điều rõ ràng nhất trong chế độ này chính là địa vị của người phụ nữ thấp bé đến mức hèn mọn. Họ ít khi được đi học nhưng vẫn phải sống trọn tam tòng tứ đức.
Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Hoa, người ta thường nhắc đến câu nói như vậy, nói rằng một vị quan đại thần nào đó có “tam thê tứ thiếp”, hưởng hết vinh hoa phú quý. Tuy nhiên, những trường hợp này thời cổ đại chỉ có nhà giàu mới có, đối với gia đình bình thường mà nói, có vợ đã là tốt lắm rồi huống chi “tam thê tứ thiếp”.
Vậy “tam thê tứ thiếp”, ai là thê, mà ai là thiếp?
Người sống trong thời phong kiến được phân thành nhiều cấp bậc, địa vị khác nhau. Địa vị không giống nhau thì đãi ngộ đương nhiên cũng khác.
Như nô lệ, nhóm người ở tầng thấp nhất của xã hội, không chỉ không có quyền đặt tên cho mình, ngay cả quyền lợi cơ bản nhất của con người cũng không có.
Hoàng đế là người ở cấp bậc cao nhất, sở hữu hậu cung ba nghìn giai lệ, hạ nhân hàng nghìn hàng vạn, tài sản không thể đếm xuể… còn nắm trong tay quyền sinh sát, quyết định mạng sống của người khác.
Cấp bậc của những người vợ ở thời này cũng bị ảnh hưởng bởi chế độ địa vị xã hội. Người có địa vị cao thì có thể làm thê tử. Nếu điều kiện gia cảnh của người vợ cách biệt rất lớn với người chồng thì cho dù có được người đàn ông yêu thích đến mấy, thì đa phần sống như kiếp nha hoàn (người hầu), quá lắm là được lên bậc “thiếp”.
Địa vị của thê tử vượt xa thiếp thất. Gia đình của thê tử hầu như đều có điều kiện kinh tế, thậm chí còn có quyền thế trong triều đình. Họ được gả đi cũng được thông qua nhiều lễ nghi cưới hỏi đàng hoàng như “tam sính lục lễ” (sính lễ và nghi thức đám cưới) và được đón vào từ cửa chính của nhà trai.
Thế nhưng thiếp thất thường không được như vậy. Họ đa phần là những cô gái có địa vị thấp, gia cảnh không quá tốt, thường được gả đi để phục vụ nhà chồng, như món hàng trả nợ cho nhà cha mẹ đẻ, cưới hỏi cùng lắm chỉ được ngồi trên chiếc kiệu nhỏ đi vào cửa sau.
Cũng vì bị xếp vào thiếp thất, nên họ thường bị chèn ép bởi thê tử của chồng, hay còn gọi là vợ được cưới danh chính ngôn thuận. Cùng mang số phận làm vợ người ta, nhưng người thì được hưởng nhiều loại đãi ngộ đặc biệt, được tôn trọng và ăn sung mặc sướng; người thì phải sống như kiếp hạ nhân, phải cơm bưng nước rót cho chồng, cha mẹ chồng và thậm chí là thê tử của chồng.
“Tam và tứ” trong “tam thê tứ thiếp” là con số ước lệ cho việc người đàn ông thời bấy giờ có thể cưới nhiều vợ. Thê và thiếp là phân loại cấp bậc vợ của người đàn ông.
Bên cạnh đó, “tam và tứ” còn thể hiện một ý nghĩa quan trọng khác. Đó là thông thường, trong một gia đình một chồng nhiều vợ, số lượng thê tử thường ít hơn thiếp thất, rất nhiều trường hợp thê tử chỉ có một. Con số này phần nào nói lên sự cao quý của thê tử được cưới gả đàng hoàng, chứ không “đại trà” như thiếp thất.
Ở một số gia đình thời phong kiến, thê tử còn có thể giữ nhiệm vụ quản lý tài chính trong thu chi hàng ngày của nhà chồng, xử lý mọi việc phát sinh, từ người hầu cho đến thiếp thất.
Đồng thời thê tử còn được nhà chồng nể nang một vài phần vì bối cảnh gia đình cha mẹ đẻ của họ. Có thể cuộc hôn nhân này không có tình yêu, nhưng nhờ sở hữu cấp bậc địa vị nhất định nên họ được hưởng những đãi ngộ to lớn hơn thiếp thất thấp kém.
Con cái của thê tử (đặc biệt là con trai) thường được thừa hưởng sản nghiệp gia tộc và nắm quyền quản lý gia đình khi trưởng thành. Theo đó, thê tử này cũng được nâng tầm địa vị, “mẹ quý nhờ con”.
Con người ngày nay xem chế độ hôn nhân “đa thê” này là hành vi đáng lên án. Chế độ hôn nhân này không những thiếu tôn trọng phụ nữ mà còn hủy đi nhân tính. Nó thể hiện sự bất lực của những kẻ nghèo hèn cũng là bi kịch của người phụ nữ thời cổ đại.